Viêm đường hô hấp trên tuy là một bệnh không gây nguy hiểm tức thì, nhưng đôi khi hậu quả của nó có thể dẫn đến những bệnh nguy hiểm như nhiễm khuẩn huyết, viêm não – màng não…
Căn nguyên gây bệnh
Viêm đường hô hấp trên bao gồm viêm họng, hầu, mũi, viêm thanh quản, VA, viêm các xoang…
Viêm đường hô hấp trên do nhiều căn nguyên khác nhau, có thể do dị ứng với thời tiết, với các loại dị nguyên khác nhau (kháng nguyên) có trong không khí, trong bụi hoặc tác động của hóa chất, khói t.huốc l.á (hút hoặc hít phải khói t.huốc l.á, thuốc lào do người khác nhả ra) hoặc do vi sinh vật gây bệnh (vi nấm, vi khuẩn, virus) như loại vi khuẩn phế cầu (Streptococcus pneumoniae); liên cầu, nhất là liên cầu nhóm A (Streptoccocus pyogenes); Hemophilus influenzae, B. catarrhalis, xoắn khuẩn Vencent… Ngoài vi khuẩn còn có loại vi nấm như Candida albicans cũng hay gặp gây bệnh ở đường hô hấp trên, điển hình nhất là bệnh tưa lưỡi.
Bài Viết Liên Quan
- Nhà vệ sinh công cộng, mối nguy dịch bệnh Covid-19
- Sai lầm nhiều người mắc: Triệt tiêu tinh bột khiến não bị đơ
- Chữa bệnh bất lực từ gừng vàng
Khám cho trẻ bị viêm họng.
Dấu hiệu nhận biết
Viêm đường hô hấp trên được chia thành 2 loại: viêm đường hô hấp trên cấp tính và viêm đường hô hấp trên mạn tính.
Viêm đường hô hấp trên cấp tính: Bệnh thường xảy ra khi có một số yếu tố thuận lợi tác động, như thay đổi thời tiết từ nóng sang lạnh; uống nước quá lạnh hoặc nước đá, kem; nằm, ngồi trước luồng gió lạnh của quạt hoặc điều hòa nhiệt độ… Triệu chứng gặp đầu tiên là sốt (có thể sốt nhẹ, đôi khi sốt cao kèm theo rét run), kèm theo sốt là ho, hắt hơi và chảy nước mũi. Cơn ho có khi chỉ húng hắng, có khi ho liên tục. Bệnh nhân là người lớn hoặc t.rẻ e.m lớn còn có triệu chứng bị đau họng khi nuốt, khi ăn. Chảy nước mũi là triệu chứng hay gặp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ.
Viêm đường hô hấp trên mạn tính: Khi bị viêm đường hô hấp trên cấp tính mà không được điều trị hoặc điều trị không dứt điểm thì rất dễ chuyển thành viêm đường hô hấp mạn tính.
Triệu chứng của viêm đường hô hấp trên mạn tính là ho húng hắng, rát họng, nuốt thấy hơi vướng như có vật gì nằm trong họng, đặc biệt ở t.rẻ e.m là chảy nước mũi thường xuyên (một hoặc cả hai bên mũi). Một số t.rẻ e.m bị VA mạn tính kéo dài mà căn nguyên do trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa) thì chất nhầy chảy ra ở mũi thường có màu xanh mà người ta hay gọi là “thò lò mũi xanh”.
Ngoài thò lò mũi xanh, trẻ ngủ thường ngáy, thở bằng mồm. Ở người lớn, ngoài triệu chứng điển hình là rát họng, nuốt vướng còn có nghẹt mũi (một bên hoặc cả hai) do hiện tượng phì đại cuốn mũi… Trong những trường hợp viêm xoang thường có kèm theo triệu chứng đau đầu…
Làm gì để phòng bệnh?
Cho đến nay, bệnh viêm đường hô hấp trên đã có nhiều phương pháp điều trị. Nhưng vì chủ yếu bệnh là do virus gây ra nên tất cả những phương pháp đó đều là điều trị triệu chứng mà chưa có điều trị căn nguyên.
Một số thuốc thường dùng là: thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm nhằm ngăn chặn sốt quá cao và tai biến co giật do sốt cao. Bên cạnh đó, có thể dùng thuốc kháng histamin nhằm ngăn chặn giải phóng quá nhiều chất trung gian hóa học gây viêm do cơ chế phản ứng đôi khi là quá mức. Còn lại là dựa vào sức đề kháng của người bệnh và chờ cho đến khi cơ thể tự đào thải virus.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh – đây là câu nói rất phù hợp với mọi bệnh, trong đó có bệnh viêm đường hô hấp trên. Điều này có liên quan mật thiết đến vệ sinh môi trường, vệ sinh hoàn cảnh. Đối với cá nhân, nhất là t.rẻ e.m và người cao t.uổi cần mặc áo ấm, giữ ấm cổ vào những ngày gió lạnh.
Cần vệ sinh răng miệng hàng ngày. Nên tập cho trẻ có thói quen đ.ánh răng trước và sau khi ngủ dậy. Khi ra đường nên đeo khẩu trang để hạn chế hít phải nhiều bụi, trong đó có những loại bụi có mang cả các dị nguyên và vi sinh vật.
Tuyệt đối không hút t.huốc l.á, thuốc lào. Những gia đình dùng bếp than cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa hít phải khí độc do than khi đốt cháy thải ra. Những gia đình dùng bếp củi, rơm, rạ nên dùng loại bếp ít khói, cần tránh xa, không tiếp xúc với các loại khói càng tốt.
Số ca bệnh Whitmore tăng cao trong mùa mưa lũ
Tối ngày 16/11, Bệnh viện Trung ương Huế thông tin, trong khoảng thời gian mưa lũ kéo dài tại các tỉnh miền Trung, số lượt bệnh nhân mắc bệnh Whitmore nhập viện tại bệnh viện tăng đột biến.
Cụ thể, chỉ từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 11, đơn vị này đã tiếp nhận điều trị cho gần 30 ca bệnh. 50% bệnh nhân đến từ các tỉnh Nam Định, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị… 50% đến từ các huyện Phú Lộc, Phú Vang, Quảng Điền, Phong Điền, Hương Thủy của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nhiều bệnh nhân đến nhập viện ở giai đoạn muộn của bệnh, khi đã có tình trạng nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn hoặc suy đa tạng… điều trị khó khăn, chi phí điều trị cao nhưng kết quả không khả quan.
Bệnh nhi bị áp-xe tuyến mang tai do vi khuẩn Burkhoderia Pseudomalei đang điều trị tại Trung tâm Nhi Bệnh viện Trung ương Huế.
Theo BSCKII Hoàng Thị Lan Hương – PGĐ Bệnh viện Trung ương Huế, bênh Whitmore còn gọi là bệnh Melioidosis do trực khuẩn gram âm Burkhoderia Pseudomallei gây ra. Vi khuẩn này được tìm thấy trong đất, nước bẩn, trong các cánh đồng lúa, và các vùng nước tù đọng trong khu vực. Vi khuẩn lây lan sang người và động vật qua tiếp xúc trực tiếp với các nguồn ô nhiễm.
Tại Bệnh viện Trung ương Huế, từ năm 2014 đến năm 2019 chỉ ghi nhận có khoảng 83 trường hợp được chẩn đoán Whitmore. Từ tháng 1 đến tháng 9/2020 có 11 bệnh nhân. Tuy nhiên từ tháng 10/2020 đến nay có 28 bệnh nhân.
Sự tăng đột biến số lượng ca bệnh trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11 tại Việt Nam là hoàn toàn giống với các nghiên cứu ở các vùng dịch bệnh khác trên thế giới vì số lượng ca bệnh Whitmore có liên quan chặt chẽ và tỷ lệ thuận với lượng mưa hàng năm và đặc biệt tăng cao sau lũ lụt do sự phát triển mạnh mẽ của vi khuẩn Burkhoderia Pseudomallei.
Bệnh nhân Whitmore đang điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Trung ương Huế.
Hiện nay, việc điều trị bệnh Whitmore là rất khó khăn do vi khuẩn B. Pseudomallei kháng với hầu hết các kháng sinh thông thường. Hiện tại chưa có vacxin phòng bệnh. Những vùng có bệnh Whitmore lưu hành, những người bị suy giảm hệ thống miễn dịch (như AIDS, ung thư, những bệnh nhân hóa trị…) nên tránh tiếp xúc với đất và nước bị ô nhiễm, đặc biệt là ở các khu vực trang trại.
Để chủ động phòng bênh Whitmore, BSCKII Hoàng Thị Lan Hương đưa ra lời khuyên người dân cần hạn chế tiếp xúc với đất hoặc nước bùn ở vùng lũ, đặc biệt là những nơi bị ô nhiễm nặng trước lũ. Sử dụng giày, dép và găng tay đối với những người thường xuyên làm việc ngoài trời, tiếp xúc với đất và nước bẩn, nước lụt, đặc biệt đối với những người có nguy cơ cao.
Khi có vết thương hở, vết loét… cần tránh tiếp xúc với đất hoặc nước lũ bị ô nhiễm nặng. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc thì sử dụng băng chống thấm và cần được rửa sạch đảm bảo vệ sinh. Những người có bệnh mạn tính như tiểu đường, suy giảm miễn dịch cần được chăm sóc, bảo vệ các tổn thương để ngăn ngừa nhiễm khuẩn do nước lũ gây ra.
“Bệnh Whitmore hoàn toàn có thể phòng tránh và điều trị hiệu quả nếu phát hiện sớm, điều trị bằng các loại kháng sinh đặc hiệu. Những trường hợp t.ử v.ong thường do bệnh nhân đến viện ở giai đoạn muộn, khi đã có tình trạng nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn hoặc suy đa tạng.
Sau bão lũ sẽ có rất nhiều vi sinh vật, bụi, rác, chất thải… theo dòng nước tràn ra gây ô nhiễm môi trường, người dân phải đối mặt với rất nhiều bệnh lý truyền nhiễm tiềm ẩn. Vì vậy, việc xử lý môi trường ô nhiễm, đảm bảo nguồn nước sạch… và chăm sóc sức khỏe người dân sau lũ lụt là hết sức quan trọng và cấp thiết”, BSCKII Hoàng Thị Lan Hương cho hay.
Được biết trước tình trạng bệnh nhân mắc bệnh Whitmore nhập viện tại bệnh viện tăng đột biến trong mùa mưa lũ, Bệnh viện Trung ương Huế đã tổ chức tập huấn nâng cao cảnh giác về bệnh cho các bác sĩ tại bệnh viện. Trong thời gian đến bệnh viện sẽ kết hợp với Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học Đại học Quốc gia Hà Nội sàng lọc để phát hiện các ca bệnh nghi ngờ bằng kỹ thuật Elisa, hy vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho bệnh nhân được chẩn đoán, điều trị sớm và có kết quả khả quan hơn.