Bệnh thận mạn tính là sự xuất hiện của các tổn thương thận, có thể gặp ở bất cứ lứa t.uổi nào kể cả t.rẻ e.m.
Khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn cuối thì cần phải lọc m.áu hoặc ghép thận.
Bệnh thận mạn tính là có sự xuất hiện của các tổn thương thận, hoặc mức lọc cầu thận. Các tổn thương này phải tồn tại trong 3 tháng trở lên vì bất cứ nguyên nhân gì. Đây là hiện tượng mất dần chức năng thận, dẫn đến nhu cầu thay thế thận.
Nếu được phát hiện sớm, điều trị phù hợp thì bệnh có thể cải thiện cho kết quả tốt, làm chậm xơ hóa cầu thận và tiến triển tới giai đoạn cuối. Khi thận không hoạt động bình thường, có thể gây ra các biến chứng và suy thận.
Nguyên nhân gây suy thận mạn
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy thận mạn, trong đó có nguyên nhân tại thận như: Loạn sản thận, van niệu đạo sau, thận đa nang, bệnh nang thận có tính chất gia đình, thận hư bẩm sinh, hội chứng huyết tán urê m.áu cao…
Nguyên nhân tiếp theo là do hội chứng thận hư do đột biến gen, hội chứng thận hư kháng các thuốc ức chế miễn dịch, viêm thận do Henoch – Schnlein, viêm thận do Lupus, viêm cầu thận tiến triển nhanh, bệnh thận IgA, hội chứng Alport…
Bệnh thận mạn có 5 giai đoạn và giai đoạn 5 được gọi là suy thận mạn. Sự tiến triển qua các giai đoạn, xảy ra nhanh hay chậm ở mỗi bệnh nhân sẽ khác nhau.
Bệnh thận mạn tính là có sự xuất hiện của các tổn thương thận.
Biểu hiện của bệnh thận mạn ở trẻ
Tùy từng trẻ, tùy từng giai đoạn khác nhau mà bệnh thận mạn tính ở trẻ cũng có các biểu hiện khác nhau. Nhìn chung khi mắc bệnh thận mạn tính, trẻ có có các biểu hiện: Mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, sưng mắt cá chân, bàn chân hoặc bàn tay, hoặc toàn thân.
Trẻ đi tiểu thường xuyên, ở trẻ từ 5 t.uổi trở lên sẽ đái dầm kéo dài. Còi cọc hoặc tăng trưởng kém so với các bạn cùng lứa t.uổi. Thường xuyên đau đầu do huyết áp cao. Nhìn thấy m.áu trong nước tiểu. Thiếu m.áu và xanh xao do giảm sản xuất hồng cầu.
Tuy nhiên, ởtrẻ lớn hơn thì triệu chứng tiềm ẩn, khó phát hiện hơn hoặc đi kèm với các triệu chứng của bệnh nền. Các yếu tố gây còixương, chậm phát triển thể chất ở trẻ là do không hấp thụ đủ chất dinh dưỡng, năng lượng hoặc chất đạm.
Trẻ sinh nhẹ cân (dưới 2500g), trẻ sinh thiếu tháng sẽ dễ mắc bệnh hơn. Ngoài ra, mẹ bầu bị bệnh hoặc dùng thuốc sẽ không tốt cho thận trong thai kỳ, thận của trẻ cũng dễ bị tổn thương hơn.
Để chẩn đoán, ngoài các biểu hiện lâm sàng, các bác sĩ sẽ chỉ định thêm làm một số xét nghiệm như: Xét nghiệm m.áu và nước tiểu của trẻ có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh, chẩn đoán nguyên nhân và cho biết giai đoạn bệnh thận mạn.
Siêu âm cho thấy hình ảnh tổn thương thận (thận nhỏ, thận đa nang, thận lạc chỗ…) và các cấu trúc xung quanh. Siêu âm đồng thời có thể đưa ra gợi ý về nguyên nhân gây ra các vấn đề về thận.
Sinh thiết thận, với một mảnh mô thận nhỏ được lấy ra và kiểm tra dưới kính hiển vi để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thương của thận.
Ngoài ra, trẻ được chẩn đoán mắc các bệnh khác sau đó phát hiện ra bệnh thận mạn. Thông thường, khi trẻ có các triệu chứng được liệt kê ở trên, bác sĩ của con bạn sẽ tiến hành các xét nghiệm để chẩn đoán bệnh thận mạn.
Không thể chữa khỏi bệnh thận mạn, nhưng việc điều trị có thể giúp làm giảm các triệu chứng và ngăn bệnh trở nên nặng hơn.
Khi bị bệnh thận mạn tính trẻ sẽ có biểu hiện chán ăn, mệt mỏi, buồn nôn… Ảnh minh hoạ.
Điều trị bệnh thận mạn tính ở trẻ
Tùy mức độ điều trị các bác sĩ sẽ có phác đồ thích hợp.
Điều trị nội khoa bằng cách thay đổi lối sống và chế độ ăn để giúp trẻ duy trì sức khỏe tốt nhất có thể. Tăng năng lượng ăn, hạn chế chất đạm (thịt, cá…) và các loại trái cây nhiều kali, hạn chế muối và nước… Thuốc để kiểm soát huyết áp, protein niệu và cholesterol m.áu. Điều trị thiếu m.áu. Điều trị các biến chứng.
Các phương pháp điều trị thay thế được áp dụng khi trẻ suy thận mạn giai đoạn cuối: Thận không còn đủ khả năng để hoạt động tốt, đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày như:
– Ghép thận là phương pháp điều trị thay thế thận tốt nhất, trẻ có thể ăn uống và sinh hoạt gần như bình thường.
– Thận nhân tạo, bệnh nhân gắn liền với bệnh viện, thực hiện lọc m.áu tại bệnh viện 3 – 4 lần/tuần (3 – 4giờ/lần).
– Lọc màng bụng sử dụng chính màng bụng của cơ thể để lọc chất cặn bã và nước thừa ra khỏi cơ thể. Bệnh nhân được phẫu thuật đặt một ống thông nhỏ (cathete) mềm vào ổ bụng. Bệnh nhân hoặc người chăm sóc sẽ được nhân viên y tế huấn luyện để tự thay dịch hàng ngày ở nhà. Bệnh nhân đến viện 1 lần mỗi tháng để khám.
Cứu bệnh nhi sốc nhiễm khuẩn nặng vì loại vi khuẩn hiếm gặp
Thông tin từ Bệnh viện Bạch Mai, các bác sĩ Trung tâm Nhi khoa vừa cứu sống thành công một b.é t.rai 10 t.uổi (ở Tuyên Quang) bị Nhiễm khuẩn huyết – Sốc nhiễm khuẩn – Hội chứng suy hô hấp tiến triển (ARDS), bệnh cảnh vô cùng phức tạp do nhiễm một loại vi khuẩn hiếm gặp có tên khoa học là Chromobacterium violaceum.
Bệnh nhi được chỉ định lọc m.áu liên tục ngay tại Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: BVCC
Người nhà của b.é t.rai cho biết, ngày 7/10, bé chơi đá bóng ở sân bùn đất bẩn. Ngày 10/10, bé sốt cao 41 độ C, nổi mụn nước nhỏ, dịch trong ở lưng, bụng, tay chân 2 bên. Gia đình nghĩ b.é t.rai bị thủy đậu, tự mua Acyclovir cho uống, Su bạc, Xanh Methylen bôi nốt mụn nước nhưng bé không đỡ. B.é t.rai sốt dày hơn, 3-4 tiếng đồng hồ/cơn, mụn nước chuyển mụn mủ trắng.
Ngày 11/10, gia đình đưa bé đến BVĐK tỉnh Tuyên Quang khám, được chẩn đoán: Thủy đậu bội nhiễm – Nhiễm khuẩn huyết, điều trị tại đó 3 ngày bằng kháng sinh kết hợp nhưng tình trạng bệnh nhi không cải thiện. Bệnh nhi vẫn sốt cao, các nốt phỏng bắt đầu xuất hiện tình trạng loét da, có mủ phía dưới rải rác ở lưng, đầu nên được chuyển đến Bệnh viện bệnh nhiệt đới Trung ương ngày 13/11. Sau đó, bệnh nhi được chuyển tới Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Bạch Mai trong tình trạng khó thở nhiều, thở oxy mask bão hòa oxy chỉ được 84-85% kèm đau ngực, nhịp tim nhanh, trẻ sốt cao liên tục 39-40 độ C.
Trực tiếp điều trị cho bệnh nhi ngay từ lúc nhập viện, bác sĩ Nguyễn Hữu Hiếu – Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, ngay trong đêm kíp trực đã hội chẩn với Ban lãnh đạo Trung tâm Nhi khoa và bệnh nhân được tiến hành đặt máy thở không xâm nhập.
Khoảng 2 giờ sau, bệnh nhân được đặt ống nội khí quản và thở máy, tuy nhiên bệnh nhân bị xuất huyết phổi nhiều, phổi chụp lên mờ lan tỏa 2 bên trường phổi, rơi vào tình trạng suy hô hấp, sốc nhiễm khuẩn nặng, mạch nhanh, huyết áp tụt phải phối hợp 2 loại vận mạch liều cao, bão hòa oxy giảm nhiều, chỉ được 60 – 70%, huyết áp trung bình giảm nặng.
Hôm sau, bệnh nhi diễn biến nặng lên, xuất huyết phổi liên tục, bão hòa oxy chỉ còn 40 – 50% và rơi vào sốc nhiễm khuẩn nặng, kháng với các thuốc vận mạch, phải sử dụng phối hợp 3 loại kháng sinh và dùng các thuốc vận mạch liều rất cao.
Các vết loét nhiều lên, xuất hiện nhiều nốt mới, bệnh nhân diễn biến nặng, nguy cơ t.ử v.ong cao, sốc nhiễm khuẩn rất nặng và gần như kháng với các phương pháp điều trị thông thường. Ban lãnh đạo Trung tâm đã nhiều lần hội chẩn, chỉ định cho bệnh nhân dùng kết hợp các loại kháng sinh mạnh, kết hợp truyền Acyclovir và IVIG (một loại thuốc quý trong điều trị nhiễm khuẩn nặng).
Ngay trong đêm, bệnh nhân được truyền Abumin và IVIG, tuy nhiên tình trạng oxy m.áu không cải thiện. Sau hơn một ngày kết hợp nhiều loại thuốc khác nhau và thở máy thông số cao, bệnh nhân cũng không đáp ứng nhiều, vẫn trong tình trạng sốc rất nặng, bão hòa oxy trong m.áu vẫn giảm nặng.
Vết phỏng, loét trên lưng bệnh nhi gây nhầm lẫn với thủy đậu. Ảnh: BVCC
Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, các bác sĩ của Trung tâm đã nhiều lần hội chẩn và xin ý kiến chỉ đạo của Giám đốc Trung tâm là TS.BS. Nguyễn Thành Nam quyết định lọc m.áu liên tục cho bệnh nhi. Kỹ thuật này đã được triển khai ngay tại Trung tâm Nhi khoa hơn một năm nay và đã cứu sống được nhiều ca bệnh nặng. Đồng thời, kết quả cấy m.áu về phát hiện ra một con vi khuẩn rất hiếm gặp, có tên khoa học là Chromobacterium violaceum, một trực khuẩn Gram âm, hiếm khí. Vi khuẩn này thường phân biệt với các vi khuẩn khác trong bùn đất, đặc biệt là Whitmore, rất ít trường hợp được báo cáo ở t.rẻ e.m. Theo các báo cáo trong y văn, vi khuẩn này thường gây tiêu hủy xương và ăn vào các tổ chức của cơ và da gây hoại tử, khó hồi phục.
Sau khi có kết quả của vi khuẩn cấy m.áu, các bác sĩ đã phối hợp với Khoa Vi sinh làm kháng sinh đồ, hội chẩn với các chuyên gia dược lâm sàng của Bệnh viện Bạch Mai, rất may mắn vi khuẩn này nhạy với 2 loại kháng sinh đang sử dụng cho bệnh nhân, trẻ được dừng Acylovir truyền tĩnh mạch và thêm 1 loại kháng sinh vi khuẩn nhạy cảm theo kết quả của kháng sinh đồ.
Kết hợp lọc m.áu liên tục và sử dụng kháng sinh theo kháng sinh đồ, sau 3 ngày bệnh nhân đã có tiến triển đáng kể, giảm sốt, các chỉ số viêm và huyết động tiến triển nhiều, được cắt bớt vận mạch sau 5 ngày và cai máy thở sau 1 tuần, bệnh nhân được chuyển thở oxy.
Sau 2 tuần điều trị, bệnh nhân đã có tiến triển rất tốt, tự thở, tiếp xúc tốt, không có di chứng nào về não hay các cơ quan khác. Hiện bệnh nhân vẫn đang tiếp tục được điều trị kháng sinh và cấy m.áu lại để hạ bậc kháng sinh.
Sau 3 tuần điều trị, trẻ có tiến triển tốt hơn và đang được phục hồi chức năng thêm về hô hấp và vận động, dự kiến ra viện trong vài ngày tới.
Qua đây, các bác sĩ khuyến cáo, Chromobacterium violaceum là loại vi khuẩn hiếm gặp nhưng lại hay gặp nơi bùn đất, do đó cho con trẻ chơi ở nơi bẩn, có bùn đất thì cần giữ vệ sinh cho trẻ, tránh để trẻ bị xây xát, trầy xước vì đây là cơ hội để các vi khuẩn gây bội nhiễm, đặc biệt ở nơi tổn thương qua da và niêm mạc của trẻ.
Các bác sĩ cũng lưu ý các bố mẹ không tự điều trị ở nhà cho trẻ khi không rõ căn nguyên. Vi khuẩn này cần phân biệt với whitmore, thủy đậu, tay chân miệng, viêm da liên cầu…. Các tổn thương phỏng kiểu này gặp trên rất nhiều bệnh nên không tự ý điều trị tại nhà. Khi trẻ có dấu hiệu nặng nên được đưa đến cơ sở y tế sớm để được chẩn đoán và điều trị kịp thời, tránh những biến chứng đáng tiếc có thể xảy ra.